Ảnh hưởng của các sắc tố (màu ngực) đến kiểu hình bộ lông nói chung by D-Finch

Ảnh hưởng của các sắc tố (màu ngực) đến kiểu hình bộ lông nói chung

Posted on January 9, 2023


Hai loại sắc tố có trong lông của những con chim có màu xanh lục là eumelanin đen và pheomelanin đỏ nâu. Cả hai đều ảnh hưởng đến màu lông cuối cùng hoặc sắc thái của nó. Việc mất đi một phần hay toàn bộ một trong các sắc tố này sẽ thể hiện trên toàn bộ bộ lông. Pheomelanin hoạt động như một yếu tố làm sẫm màu.

Giảm pheomelanin (Không liên quan đến giới tính)

2 yếu tố – (chim ngực trắng) – sự vắng mặt của pheomelanin sẽ thể hiện, chẳng hạn như màu sắc của đầu, nơi xảy ra hiện tượng mất sắc tố đáng kể ở phần giữa của lông. Mất pheomelanin hoàn toàn (nhân tố kép - doule factor) là cần thiết để tạo ra đột biến lutino.

1 yếu tố – mất pheomelanin (chim ngực hồng) – xảy ra hiện tượng phai màu lông một phần. Việc thiếu một yếu tố pheomelanin có nghĩa là vẫn còn một yếu tố, do đó, một lượng pheomelanin nhất định được bảo tồn, cho phép sự tồn tại của chim ngực xanh, nhưng mức độ của nó quá thấp nên màu sắc của chính nó không đủ để ảnh hưởng đến màu cấu trúc và màu ngực màu tím không xảy ra.

Sự hiện diện hay vắng mặt của pheomelanin, yếu tố đơn hoặc yếu tố kép luôn liên quan đến màu lông của toàn bộ cơ thể, không chỉ màu ở ngực. Ở chim ngực trắng, pheomelanin cũng không có trong màu lông đầu. Ở những con chim ngực tím, nó được bảo tồn.

Giảm eumelanin (Có liên quan đến giới tính)

1 yếu tố – xảy ra hiện tượng phai màu một phần lông vũ. Ở những con chim ngực tím (nơi có yếu tố pheomelanin làm sẫm màu), kiểu hình xuất hiện là: 1 yếu tố vàng thì chim trống ngực tím sẽ có màu xanh nhạt (green pastel)(những con chim này có màu ở cổ và xương đuôi nhạt hơn khoảng 30% so với chim xanh). Ở những con chim ngực trắng, kiểu hình xuất hiện là: 1 yếu tố vàng trên con đực màu vàng (những con chim này có màu cổ và xương đuôi nhạt hơn khoảng 50%  so với những con màu xanh lá cây)

2 yếu tố – xảy ra hiện tượng phai màu lông rõ rệt hơn. Ở những con chim có bộ ngực màu tím (nơi có yếu tố pheomelanin làm sẫm màu), kiểu hình xuất hiện là: 2yếu tố (2f) vàng trên con đực màu vàng (những con chim này có màu cổ và xương đuôi nhạt hơn khoảng 50% so với những con màu xanh lá cây). Ở những con chim ngực trắng, kiểu hình xuất hiện như sau: 2f vafmh trên con đực màu vàng – gần như màu vàng (những con chim này có cổ và xương đuôi màu trắng/lơ-trắng)

Sự hiện diện hay vắng mặt của eumelanin, dù là yếu tố đơn hay yếu tố kép luôn liên quan đến màu lông của toàn bộ cơ thể chứ không chỉ màu ở ngực. Trong ví dụ về lông ngực của những con chim có ngực màu xanh lá cây và xanh tím cũng như màu trắng, chúng ta thấy rằng các đoạn dưới cùng của lông chứa một lượng nhỏ eumelanin, tuy nhiên, chất này không ảnh hưởng đến kiểu hình của màu sắc ở ngực.


Ở những con chim màu vàng và bạc, không nhìn thấy sự hiện diện của eumelanin trong khu vực này, cả ở những con chim có bộ ngực màu tím và màu trắng. Đồng thời, cường độ màu sắc của ngực giống nhau ở các loài chim màu vàng, xanh lá cây, bạc và xanh lam. Đây là bằng chứng rõ ràng rằng eumelanin và pheomelanin không liên kết với nhau theo bất kỳ cách nào và có mặt trong toàn bộ bộ lông.

Vì pheomelanin hoạt động như một yếu tố làm sẫm màu, nên ở những con chim có cùng khuynh hướng di truyền (màu nền), một kiểu hình thay đổi sẽ xuất hiện. Vì vậy, sự hiện diện của nó làm tối đi hoặc sự vắng mặt của nó làm sáng vẻ ngoài của những chiếc lông vũ.

Tương tự như cấu trúc của lông đầu, có sự khác biệt giữa các giới tính ở lông ngực. Mọi nhà lai tạo chắc chắn đều nhận thấy rằng con cái có ngực màu tím nhạt hơn và hơi mờ hơn so với con đực. Cơ sở cho điều này chắc chắn nằm ở phát sinh loài của loài, nơi ít nhất một phần cần thiết là con cái có màu sắc ít nổi bật hơn.

 Nếu chúng ta so sánh lông của con đực và con cái, chúng ta thấy rằng các ngạnh của lông ở đoạn trên của nó dài hơn đáng kể ở con đực so với con cái. Chính tại những phần này, màu cấu trúc quang học được tạo ra trong tủy do nhiễu. Ở con cái, màu sắc cấu trúc ít nổi bật hơn, vì ngạnh ngắn hơn và màu lông ít khác biệt hơn ở con đực. Lông vũ của con cái, vì chúng ít có cấu trúc ánh kim màu xanh lam hơn, bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi màu sắc của pheomelanin. Quan sát tương tự có thể được thực hiện đối với chiều dài ngạnh trên hình ảnh của những con chim ngực trắng. Vì pheomelanin không có ở những con chim này, tủy không được kích hoạt và không có màu cấu trúc. Bộ lông không bị ảnh hưởng bởi màu sắc cấu trúc cũng như màu sắc của sắc tố và nó có màu trắng. Tuy nhiên, vẫn còn một lượng nhỏ pheomelanin và có thể quan sát thấy màu xanh nhạt ở đầu ngạnh của chim ngực trắng. Khi quan sát ở các giống chó, sắc thái này chỉ có thể nhìn thấy trong các điều kiện ánh sáng nhất định.

Màu ngực

Như được ngụ ý bởi các tuyên bố trên, màu sắc của ngực bao gồm màu sắc tố (pheomelanin màu nâu đỏ) và màu sắc cấu trúc quang học (màu xanh lam), được tạo ra bằng cách can thiệp vào tủy của ngạnh lông vũ.

Kế thừa màu ngực

Các alen (dạng gen khác nhau) quy định màu ngực nằm trên nhiễm sắc thể thường. Điều đó có nghĩa là màu ngực không liên quan đến giới tính và được di truyền tự do, giống nhau cho cả nam và nữ.

 ♂ con đực cũng như ♀ con cái có thể là nhân tố đơn và nhân tố kép cho đặc điểm được chỉ định:

 PP (màu tím): chiếm ưu thế.

ww (Hoa cà): tính trạng lặn so với màu tím nhưng trội so với màu trắng.

pp (trắng): tính lặn đối với cả màu tím và màu hoa cà.

Màu ngực hoa cà có thể từ gần như trắng đến gần như tím. Những con chim ngực màu hoa cà tốt hơn nên loại bỏ khỏi một giống, hoặc nhà lai tạo có thể loại bỏ những con chim ngực trắng bằng cách sử dụng chúng

Ví dụ:

Lai tạo lần 1 – ngực trắng × ngực tím

Kiểu gen của một con chim có màu ngực trắng phải là pp. Giả sử rằng bố mẹ còn lại là đồng hợp tử ngực tím (không phân li), vì vậy kiểu gen của nó sẽ là PP. Chúng ta phải nhớ rằng giao tử (trứng hoặc tinh trùng) chỉ mang một alen từ cặp. Tất cả các con xuất phát từ chim ngực trắng đều mang alen p. Tất cả những con xuất phát từ con chim ngực tím sẽ mang alen P. Trong trường hợp này, kết quả thụ tinh sẽ luôn giống nhau. Nếu giao tử của bố hoặc mẹ thứ nhất (có màu tự nhiên) – P kết hợp với giao tử của bố và mẹ thứ hai (ngực trắng) – p thì các hợp tử tạo thành sẽ có kiểu gen là Pp. Vì P trội hoàn toàn so với p nên kiểu hình ở thế hệ con thứ nhất sẽ có 100% là ngực tím, phân li thành ngực trắng.

 

Lai tạo lần 2 – ngực trắng × ngực tím, tách ra thành ngực trắng (như ở giống số 1)

Bố mẹ trong trường hợp này sẽ có các kiểu gen sau: Bố mẹ ngực trắng sẽ là pp. Tất cả các giao tử của nó sẽ mang một alen p. Kiểu gen của bố mẹ ngực tím phân li thành ngực trắng là Pp. Trong trường hợp này 50% số giao tử sẽ mang alen P và 50% còn lại mang alen p. Hai kết quả có thể xảy ra từ việc nhân giống này:

1.) Giao tử mang p có thể kết hợp với giao tử khác mang p, kết quả sẽ tạo ra hợp tử có kiểu gen pp. Con chim này sẽ là một mẫu vật ngực trắng.

2.) Giao tử mang P sẽ hợp nhất với giao tử mang p. Đời con này sẽ có kiểu gen Pp và sẽ có ngực màu tím, tách thành màu ngực trắng. Nói cách khác, kết quả của sự lai tạo này sẽ là 50% con non ngực trắng và 50% ngực tím, phân tách thành ngực trắng.

 

Lai tạo lần 3 – ngực tím, tách thành ngực trắng × ngực tím, tách thành ngực trắng

Cả bố và mẹ đều có kiểu gen Pp nên 50% số giao tử của cả bố và mẹ sẽ mang alen P và 50% mang alen p. Chúng tôi nhận được bốn tùy chọn khác nhau để hợp nhất các giao tử. Các kết quả có thể được đưa ra trong bảng.

Nói cách khác, kiểu gen của đời con là: 1 PP : 2 Pp : 1 pp (hoặc 25% : 50% : 25%).

Tỷ lệ kiểu hình là 3:1, nghĩa là 75% ngực tím (bao gồm 50% tách thành ngực trắng và 25% ngực tím đồng hợp tử) và 25% ngực trắng (pp).

 

Lai tạo lần 4 – ngực tím × ngực tím lilac

Kiểu gen của chim ngực hoa cà là ww. Giả sử chim ngực tím là đồng hợp tử (không phân li) nên kiểu gen của nó sẽ là PP. Chúng ta phải nhớ rằng giao tử (trứng hoặc tinh trùng) chỉ mang một alen từ cặp. Tất cả chúng có nguồn gốc từ chim ngực hoa cà sẽ mang alen w. Tất cả những con xuất phát từ con chim ngực tím sẽ mang alen P. Trong trường hợp này, kết quả thụ tinh sẽ luôn giống nhau. Nếu giao tử của bố mẹ đầu tiên (màu tự nhiên) – P hợp nhất với giao tử của giao tử thứ hai (ngực hoa cà) – w, các hợp tử thu được sẽ có kiểu gen là Pw. Vì P trội hoàn toàn so với w nên kiểu hình ở thế hệ con đầu tiên sẽ là 100% ngực tím, phân li thành ngực hoa cà.

 

Lai tạo lần 5 – ngực tím, tách thành ngực trắng × ngực tím, tách thành ngực màu hoa cà

Bố mẹ sẽ có kiểu gen Pp và Pw. Các kết quả có thể có của con cái được đưa ra trong bảng.

Tỉ lệ kiểu hình là 3 : 1, có nghĩa là 75% ngực tím (bao gồm 25% ngực tím, tách thành ngực trắng, 25% ngực tím, tách thành ngực lilac và 25% ngực tím đồng hợp tử) và 25% ngực tím lilac, tách thành ngực trắng.

Nguồn sưu tầm.