Di truyền học Gouldian by D-Finch

Di truyền học Gouldian

Posted on December 13, 2022


Di truyền học có thể khó đối với bất kỳ ai không có nền tảng về Sinh học hoặc chưa bao giờ tham gia khóa học về di truyền học. Vì lý do đó, tôi sẽ cố gắng đơn giản hóa những điều cơ bản và cung cấp một khóa học "cơ bản" về di truyền học mendelian để hỗ trợ những ai thực sự quan tâm đến việc tìm hiểu về di truyền học Gouldian. Việc học có thể mang lại lợi ích không chỉ vì niềm vui mà bạn có được khi hiểu được một điều gì đó quá phức tạp - mà còn vì sự tự do để tạo ra các bầy con dựa trên kiến thức của bạn về di truyền học và loài chim của bạn.

Giới thiệu di truyền học

Di truyền học Gouldian có thể được chia thành ba loại cơ bản: 

1. Màu đầu
2. Màu ngực và
3. Màu cơ thể
Trong danh sách di truyền ở trên, bạn có thể tìm thấy nhiều tài liệu khác nhau để tìm hiểu thêm về di truyền liên quan đến từng loại. Theo dõi thông tin di truyền học, bạn sẽ tìm thấy các biểu đồ dự báo sẽ phân tích những gì các cặp nhất định có khả năng tạo ra. 
Đối với những bạn quan tâm đến việc tìm hiểu sâu hơn một chút để thảo luận nâng cao hơn về di truyền màu sắc, bạn có thể chọn tùy chọn "Di truyền nâng cao" hoặc "Di truyền ngược" từ menu Di truyền ở trên!

Danh pháp Gouldian

Có rất nhiều nhầm lẫn xung quanh "Tên" của các đột biến Gouldian Finch khác nhau. Tôi sẽ cố gắng giải thích rõ ràng bên dưới, nhưng tôi có thể chỉ thêm vào sự nhầm lẫn nên nếu vậy, tôi xin lỗi trước!

Đầu cam vs đầu vàng (Orange vs Yellow Head)

Rất nhiều người hỏi sự khác biệt giữa "Đầu cam" và "Đầu vàng" là gì? - Câu trả lời là không có gì. Màu cam là những gì chúng ta nhìn thấy trực quan được thể hiện, vì vậy đây thường là cách con chim được mô tả. Trong cộng đồng khoa học, những con chim này được gọi là "Vàng" vì màu cam được thể hiện thực sự được kiểm soát bởi sắc tố "Vàng". Tôi có xu hướng gọi những con chim này là "Đầu cam" vì cũng có màu cơ thể "Vàng" và tôi không muốn bất kỳ ai nhầm lẫn giữa hai loài này - đặc biệt là khi sử dụng các từ viết tắt khác nhau được sử dụng để mô tả Chim sẻ Gouldian.

Ngực lilac (Lilac Breast)

Tôi thường thấy người ta nhắc đến một con chim là ngực "Rose" hay "Pink". Đây đều là những con chim ngực "Lilac", không có sự khác biệt về gen. Tuy nhiên - có một sự khác biệt giữa chim Lilac và chim "Ngực trắng bẩn", có khả năng là một sự thay đổi và không nhất thiết phải di truyền. Những con chim này thường có những mảng màu tím hoặc màu hoa cà trên một bộ ngực màu trắng. Thông thường, các mảng màu biến mất sau một lần lột xác tiếp theo. Màu ngực Lilac có nhiều sắc thái khác nhau tùy thuộc vào lượng phaeomelanin bị ức chế - giống như các biến thể mà người ta thấy ở những con đực Gouldian có màu lưng Dilute.

Màu cơ thể (Body Color)

Tên của các đột biến màu sắc cơ thể khác nhau là nơi mọi thứ trở nên thực sự có lông. Nhiều người đang thúc đẩy danh pháp di truyền trở thành tiêu chuẩn, vì nó mô tả những gì đang thực sự diễn ra về mặt di truyền, so với những gì chúng ta nhìn thấy trên thực tế và có thể giúp loại bỏ một số nhầm lẫn - cụ thể là xung quanh "Pastels" và "Silvers". Tuy nhiên, việc sử dụng danh pháp di truyền đòi hỏi sự hiểu biết về di truyền học, vì vậy theo ý kiến ​​​​của tôi, các tên thông tục sẽ chẳng đi đến đâu. Do đó, điều quan trọng là phải hiểu cả hai. Các tên bên dưới xoay quanh màu cơ bản có trong con chim: Xanh lục hoặc Xanh lam. Pastel là từ mà cộng đồng khoa học sử dụng để chỉ gen chịu trách nhiệm tạo ra những con chim có thân hình màu "pha loãng (dilute)", "vàng", "xanh nhạt (pastel blue)" và "bạc (silver)".

SF xanh nhạt (SF Pastel Green)

Đây là một con chim "bình thường" (có nghĩa là nó không mang đột biến màu xanh lam) mang một bản sao duy nhất của gen Pastel (hoặc màu vàng). SF Pastel Greens có thể là chim trống hoặc chim mái. Chim trống SF Pastel Green thường được gọi là "Dòng Pha loãng (dilute)" hoặc "Vàng SF " để mô tả hình thức bên ngoài của chúng. Chim mái SF Pastel Green thường chỉ được gọi là "Vàng". 

DF xanh nhạt (DF Pastel Green)

Điều này chỉ áp dụng cho chim trống mang hai bản sao của gen Pastel (hoặc vàng). DF Pastel Greens thường được gọi là "DF Yellows."

SF Pastel Blue

Đây là loài chim có thân màu xanh di truyền cũng mang một bản sao duy nhất của gen Pastel (hoặc màu vàng). SF Pastel Blue có thể là chimtrống hoặc chim mái. Chim trống SF Pastel Blue có quá nhiều tên ở Mỹ nên nó có thể cực kỳ khó hiểu đối với những người mới bắt đầu. Chúng thường được gọi là "Pastel", nhưng bạn cũng sẽ thấy mọi người gọi chúng là "Powder Blue", "Blue Dilute", v.v. Một số người thậm chí còn gọi "Powder Blue" như thể đó là một biến thể riêng biệt, mà nó không phải. Thêm vào sự nhầm lẫn, con trống SF Pastel Blue cũng có thể có màu "Bạc" nếu chúng có màu ngực Lilac hoặc ngực trắng. Trong những trường hợp này, tôi đã thấy mọi người gọi chúng là "False" hoặc "Giả" Bạc, điều này hoàn toàn phi logic vì những con chim có màu Bạc trực quan, vì vậy không có gì là "False" hoặc "Fake" về nó. Trong trường hợp này, gần như cần thiết phải sử dụng danh pháp di truyền vì bạn biết ngay con chim đó là SF Pastel Blue vs DF Pastel Blue. 
Chim mái SF Pastel Blue luôn có màu bạc nhìn trực quan và do đó thường được gọi là "Silver".
 

DF Pastel Blue

Đây là một di truyền chim trống mang hai bản sao của gen Pastel (vàng). Chim trống DF Pastel Blue luôn có màu bạc nhìn trực quan, và như vậy thường được gọi là "Silver". 

Tôi thường thấy người ta nhắc đến một con chim là ngực "Rose" hay "Pink". Đây đều là những con chim ngực "Lilac", không có sự khác biệt về gen. Tuy nhiên - có một sự khác biệt giữa chim Lilac và chim "Ngực trắng bẩn", có khả năng là một sự thay đổi và không nhất thiết phải di truyền. Những con chim này thường có những mảng màu tím hoặc màu hoa cà trên một bộ ngực màu trắng. Thông thường, các mảng màu biến mất sau một lần lột xác tiếp theo. Màu ngực Lilac có nhiều sắc thái khác nhau tùy thuộc vào lượng phaeomelanin bị ức chế - giống như các biến thể mà người ta thấy ở những con đực Gouldian có màu lưng Dilute.

Thuật ngữ di truyền học

Kiểu hình (Phenotype)

Đây là diện mạo trực quan thực tế của con vật (từ bây giờ chúng ta sẽ gọi là Gouldian). Vì vậy .. con chim của bạn có Đầu đỏ, Ngực tím và Lưng bình thường (Xanh lục) là "Kiểu hình" của nó.

Kiểu gen (Genotype)

Mặt khác, kiểu gen là cấu trúc di truyền thực tế của loài chim tạo ra kiểu hình của nó. Đây là lúc mọi thứ có thể trở nên phức tạp - bởi vì một con chim Ngực Tím có thể có một số  kiểu gen  - nó có thể là Tím/Trắng, Tím/Tím, Tím/Li lac. "/" một lần nữa biểu thị rằng màu được "phân chia" cho một thứ khác. Điều này sẽ có ý nghĩa hơn khi chúng ta xác định Nhân tố kép (Double Factor) và Nhân tố đơn (Single Factor) (còn được các nhà sinh vật học gọi là Đồng hợp tử hoặc Dị hợp tử).

Yếu tố đơn (Single Factor)

Yếu tố đơn (SF đơn giản hóa) có nghĩa ngược lại - con chim chỉ có một trong các gen tương ứng với một đặc điểm cụ thể. Ví dụ - với đột biến màu Vàng, một con chim trống có thể là SF hoặc DF đối với gen màu Vàng.

Nhân tố kép (Double Factor)

Hệ số kép (DF đơn giản hóa) chỉ ra rằng con chim đồng hợp tử về một đặc điểm. Điều này có nghĩa là nó có  hai  gen giống nhau tương ứng với đặc điểm cụ thể đó.

Liên kết giới tính (Sex-Linked)

Khi một đặc điểm được liên kết với giới tính, điều đó có nghĩa là các gen chỉ xuất hiện trên nhiễm sắc thể giới tính. Sẽ rất hữu ích khi chỉ ra rằng những gen này đề cập đến các gen trên  nhiễm sắc thể giới tính đực  vì nhiễm sắc thể W của chim mái không mang bất kỳ gen liên kết giới tính nào. Ở chim, các nhiễm sắc thể này được ký hiệu là Z và W (trong khi ở người chúng là X và Y) - và chim trống được xác định là ZZ, với chim mái là ZW (như một số người có thể nhận thấy, điều này ngược lại với con người: nam giới là XY và nữ giới là XX).

Đặc điểm nhiễm sắc thể thường (Autosomal Traits)

Đặc điểm nhiễm sắc thể thường là những đặc điểm nằm trên nhiễm sắc thể  khác  với nhiễm sắc thể giới tính. Ví dụ,  tất cả  các gen màu ngực là gen nhiễm sắc thể thường và không được tìm thấy trên nhiễm sắc thể giới tính.

Đặc điểm nổi trội (Dominan Trait)

Tính trạng trội là tính trạng sẽ biểu hiện ra kiểu hình nếu một hoặc nhiều bố hoặc mẹ đóng góp tính trạng đó.

Đặc điểm lặn (Recessive Trait)

Ngược lại với tính trạng trội, tính trạng lặn là tính trạng  chỉ  được biểu hiện về mặt kiểu hình nếu  cả  bố và mẹ đều mang tính trạng lặn.

Nguồn sưu tầm.